Hai Mươi Năm Điện Ảnh Sài Gòn

#dienanhsaigon
#dienanhnamvietnam
#dienanhmiennam
#saigon
#lequangthanhtam


Điện ảnh Nam Việt Nam năm 1954 -1960

Tại miền Nam, sau năm 54, điện ảnh là bộ môn giải trí cao cấp của giới thanh thiếu niên thành thị. Điện ảnh du nhập nhiều kỹ thuật cao của điện ảnh Mỹ, Philippines tiên tiến đến với công chúng yêu thích điện ảnh. 

Những năm đầu tiên của thời kỳ này (1954- 1960), điện ảnh Sài Gòn chủ yếu nằm trong tay Phòng Điện ảnh thuộc Nha Tâm lý chiến Sài Gòn, chuyên làm phim thời sự, phóng sự. 
Có rất nhiều hãng phim tư nhân hoạt động và sản xuất chính là phim thương mại. Thời này, hầu hết các phim chiếu rạp đều là phim của các nước tư bản Âu Mỹ, một phần của  phim Nhật, Trung Hoa, Hồng Kông, Đại Hàn…Mảnh đất dành cho Điện ảnh Việt Nam ngày một bị thu hẹp. Ăn nên làm ra giai đoạn này là các hãng chuyên nhập phim và hệ thống rạp chiếu bóng. Hơn 51 rạp chiếu bóng hoạt động nhộn nhịp đêm ngày tại Sài Gòn - Chợ Lớn và một số tỉnh thành lớn khác như Tây đô (Cần Thơ), Bạc Liêu…. 
Tuy số phận Điện ảnh miền Nam Việt Nam thời kỳ này mong manh như vậy, nhưng vẫn cũng có những người yêu nghề, hy sinh cho điện ảnh như Tống Ngọc Hạp, Lê Dân, Hoàng Anh Tuấn, Hoàng Vĩnh Lộc..., để không nhiều thì ít, Điện ảnh miền Nam vẫn có cơ hội đưa những ngôi sao điện ảnh thời đó là Thu Trang, Xuân Dung, Kiều Chinh… ra mắt tại các Festivals  Điện ảnh lớn ở Á Châu. 

Năm 1955, Phòng Điện ảnh Sài Gòn được thành lập, đến năm 1959 Trung tâm Quốc gia Điện ảnh thuộc Nha Thông tin (sau thành Bộ Thông tin của chính quyền Sài Gòn) ra đời, với một đội ngũ làm phim gồm 19 đạo diễn, 13 quay phim, 5 chuyên viên thu thanh và 2 chuyên viên dựng phim. Đa số những người này được cố vấn Mỹ dạy tại chỗ hoặc đi tu nghiệp ở nước ngoài hai năm (1957 - 1959), bên cạnh đó họ còn mời chuyên gia của Philippines đến Sài Gòn hợp tác với một số hãng tư nhân thực hiện phim.
Các hãng phim tư nhân thì tập trung sản xuất loại phim tâm lý xã hội, cổ tích và các đề tài gia đình, tâm lý, truyền thuyết nặng về giải trí…Trung tâm Điện ảnh chính là nơi đào tạo những chuyên viên điện ảnh đầu tiên của miền Nam. 

Rạp chiếu bóng, mỗi ngày thường chiếu theo xuất, thứ bảy có xuất chiều, chủ nhật thêm xuất sáng. Phim tình cảm Pháp thịnh hành nhất trong giai đoạn này. Dân trí thức thành thị bị ảnh hưởng lối sống và phong cách Pháp. Sau đó là phim cao bồi Mỹ và phim Ấn Ðộ ca múa. Rạp thường bắt đầu mở nhạc quyến rũ khách đi xem. Tiếng hát của Paul Anka, Andy William, Elvis Presley, Patti Page...  văng vẳng khắp phố phường. 


Điện ảnh lúc này chủ yếu dành cho giới thành thị cấp tiến. Giai đoạn này, cải lương đang cực thịnh, nghệ sỹ cải lương mới là số 1, nghệ sĩ cải lương danh tiếng “tiền vào như nước” hàng hàng đêm.
Mặc dù tương lai cho ngành sản xuất phim ảnh của miền Nam còn mịt mờ, nhưng tại Sài Gòn các hãng phim tư nhân vẫn đua nhau mọc lên để sản xuất dòng phim thương mại đang có sức thu hút nhất định với công chúng.  Lúc này, nổi lên một số hãng phim tên tuổi, nổi bật nhất là các hãng Việt Thanh (thành lập năm 1955), Văn Thế (1956), Tân Việt điện ảnh (thành lập năm 1957 ). 

Đây là giai đoạn nở rộ phong trào làm phim cải lương, thần thoại, truyền thuyết, với nhiều bộ phim khơi gợi lòng tự hào của người Việt trong việc ủng hộ phim do người Việt làm ra. Một thế hệ diễn viên đa sắc thi nhau đua tài như: Lê Thị Nam (phim Đồng Ruộng Miền Nam, 1958), Kim Cương (phim Lòng Nhân Đạo, Ngọc Bồ Đề), Trang Thiên Kim (phim Mục Liên Thanh Đề, Trương Chi…), Kim Lan (phim Người Mẹ Hiền…), Thu Trang (phim Lục Vân Tiên), Mai Trâm (phim Chúng Tôi Muốn Sống), Khánh Ngọc (phim Ràng Buộc, Ánh Sáng Miền Nam…), Xuân Dung (phim Kim Trai Thời Loạn), Kim Hoàng (phim Tiền Thân Đức Phật Tổ), Thiên Kim (phim Huyền Trân Công Chúa), Túy Phượng (phim Thạch Sanh Lý Thông), Bích Sơn, Kiều Hạnh, Tuyết Anh, Bạch Xuyến, Huỳnh Thanh, Giáng Hương…Khi nhận thấy công chúng có chút hứng thú, các hãng lao vào công cuộc sản xuất, phim mới đua nhau ra đời. Do điều kiện trong nước yếu kém về mặt kỹ thuật nên đa số những phim trắng đen, 35 ly, nếu muốn tạo được sự chuẩn mực về kỹ thuật đều phải mang ra nước ngoài làm hậu kỳ. Tốn kém, nhưng xá chi, bởi các nhà sản xuất đều là những người máu lửa. 

Thập niên 50 là giai đoạn Điện ảnh miền Nam hoạt động mạnh mẽ nhất. Chỉ trong năm 1957, các hãng phim tư nhân đã sản xuất hơn 37 phim, và trong đó có 15 phim được trình chiếu tại miền Nam.Thành công nhất về mặt doanh thu của phim Việt thời này tập trung từ năm 1954 đến năm 1957, trong đó nổi trội là phim Quan Âm Thị Kính (do hãng Mỹ Vân sản xuất).  Hãng  sản xuất nhiều phim nhất là hãng Việt Thanh. Nữ nghệ sỹ ăn khách nhất, đạt kỷ lục về số vai diễn là Kim Cương. Còn một trong những gương mặt trẻ, sáng giá được săn đón nhiều nhất là Trang Thiên Kim. 


Trước đó, trong năm 1954, Hãng phim Kim Chung kiếm lớn nhờ phim Kiếp Hoa, với sự tham gia của Kim Chung và Kim Xuân, Kiếp Hoa được xem là phim nội địa hay nhất, doanh thu là con số mà bất cứ nhà sản xuất phim Việt nào thời đó cũng thèm muốn - trên 5 triệu đồng. Thời Sài Gòn cũ, 5 triệu đồng là một gia tài khổng lồ, nhờ đó  Kim Chung có lực để phát triển một thời gian rất dài (sau này, phim Kiếp Hoa được chiếu lại nhiều lần, nhiều thời điểm, lần xuất hiện cuối khoảng năm 1974, chủ yếu dành cho những người hoài cổ, yêu mến và muốn tìm xem lại những kỷ niệm xưa về Hà  Nội).Cuối năm 1957, hãng Mỹ Vân tung ra bộ phim Người Đẹp Bình Dương trình chiếu vào dịp Noel và mừng năm mới 1958 với chiến lược quảng cáo rất sôi động. Ngay lập tức, bộ phim đã thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo khán giả và bộ phim cũng cho ra đời gương mặt minh tinh Điện ảnh miền Nam trong tương lai : Thẩm Thúy Hằng. Cùng năm,  đạo diễn Lê Dân và hãng phim Tân Việt hoàn thành Hồi Chuông Thiên Mụ, và cũng kịp trình làng một trong những nữ diễn viên khả ái nhất của nền Điện ảnh miền Nam: Kiều Chinh.Ngoài đạo diễn Lê Dân, thời kỳ này nổi trội trong làng nghề còn có Tống Ngọc Hạp, Thái Thúc Nha…

Thập niên 50, Sài Gòn bùng nổ về số lượng phim ngoại nhập. Chỉ từ năm 1954  đến  1960 số lượng phim nhập lên tới 1.850 bộ, trong đó phim Mỹ chiếm tới 85 - 90%. Vào năm 1962, phim Mỹ chỉ còn đạt được 15,4%, trong khi phim chưởng Hồng Kông và tâm lý xã hội loại "sướt mướt" của Đài Loan lên tới 40,8%. Phim của các nước khác cũng được yêu thích trong thời kỳ này là phim ca vũ nhạc thần thoại Ấn Độ, phim hiệp sĩ của Nhật Bản.

Cuối năm 1957, phong trào sản xuất phim bị chìm xuống một cách đáng ngại. 39 nhà sản xuất phim rơi rụng dần, chỉ còn 9 hãng hoạt động cầm chừng, mỗi năm sản xuất một hai phim không có giá trị, nguyên nhân phim bị lỗ, chính sách thuế lại nặng nề, trong khi đó, các nhà điện ảnh trong nước kinh tế mỏng, chỉ cần một vài phim không đạt doanh thu, họ cầm chắc cái thua lỗ…Toàn miền Nam có 120 điểm chiếu bóng, nhưng cũng chỉ có 10 rạp là hoạt động tốt, và đều tập trung tại Sài Gòn.  Các nhà sản xuất phim khốn đốn cũng là phải, bởi một năm, miền Nam sản xuất được 28 phim (thời kỳ cực thịnh của 1957-1958), thì phim nhập có số lượng trên dưới 500 phim.  Nhìn cũng thấy rõ, điện ảnh Việt bị yếu thế , phim ngoại nhập thao túng nền Điện ảnh miền Nam Việt Nam.

Nói về bộ phim Quan Âm Thị Kính ăn khách giai đoạn này của hãng phim Mỹ Vân: Vừa là chủ Ðoàn Việt Kịch Năm Châu, nghệ sĩ Năm Châu lại làm ăn được phía bên điện ảnh, và ở lãnh vực này ông thành công ngay buổi đầu. Khoảng 1956 Năm Châu hợp tác với hãng phim của ông Lưu Trạch Hưng quay cuốn phim “Quan Âm Thị Kính”, mà thành phần tài tử nòng cốt là người trong gia đình ông nắm trọn hết.

Bà Kim Cúc vợ của Năm Châu là đào lẳng, độc mà nghe qua giọng phát âm là người ta biết ngay là “độc” rồi, nên bà được giao cho vai Thị Mầu. Nhân vật chính Thị Kính thì do Kim Lan (em ruột của bà Kim Cúc) đảm trách, và ông già vợ của nghệ sĩ Năm Châu là nghệ sĩ Bảy Nhiêu thì đóng vai Sư Cụ chùa Vân. Còn riêng nghệ sĩ Năm Châu thì trong vai Thầy Hương Quản, ngoài ra vài vai phụ khác cũng giao cho bà con thân thuộc. Tóm lại phim “Quan Âm Thị Kinh” nghệ sĩ Năm Châu áp dụng đường lối “gia đình trị,” nên báo chí thời đó phê phán khá nhiều.

Thế nhưng, dù phê phán chê trách thế nào đi nữa, thì với câu chuyện thích hợp với cảm quan của đại đa số quần chúng, nên phim “Quan Âm Thị Kính” thành công vượt bực về tài chánh. Chiếu ở thủ đô Sài Gòn xuất nào cũng chật rạp, sau đó phim đi tỉnh khán giả lại càng đông hơn, và dịp này Năm Châu thanh toán hết nợ nần mà còn dư ra sắm xe hơi, hàng tuần đưa bà Kim Cúc đi Vũng Tàu hóng mát.
Thành công với phim ảnh, Năm Châu thừa thắng xông lên, nhân lúc phim Nhật, phim Phi Luật Tân, phim Ấn Ðộ nối tiếp nhau nhập vào, ông bỏ luôn sân khấu và lãnh công việc chuyển âm cho các hãng nhập cảng phim. Dĩ nhiên bà Kim Cúc cũng góp tiếng nói trong việc chuyển âm này, và lúc bấy giờ người trong giới cải lương ai cũng nể phục Năm Châu ở tài quyền biến tháo vát.

Cái sáng kiến độc đáo nhất của Năm Châu trong việc chuyển âm là đem vọng cổ vào phim Ấn Ðộ, và thiên hạ đã bất ngờ, thích thú có cảm tưởng như đang coi hát cải lương, bởi ngoài tiếng nói quen thuộc của ban Năm Châu trong phim, giờ đây lại còn nghe 6 câu vọng cổ mùi rệu. Người ta còn nhớ khoảng 1957 cuốn phim Ấn Ðộ “Gió Bụi Kinh Thành” chiếu ở rạp Tân Ðô, Tân Ðịnh khán giả phải sắp hàng mua vé, do bởi phim này tài tử chính là một anh Bảy nhưng ca vọng cổ quá hay. Có gì đâu, tiếng hát của bài ca Ấn trong phim được chuyển sang tiếng Việt với tiếng ca của vua vọng cổ Út Trà Ôn.


Điện ảnh Nam Việt Nam năm 1960-1970

Năm 1958- 1961 là giai đoạn bi kịch của điện ảnh thương mại miền Nam. Phim làm ra thua lỗ, mọi sản xuất bị đình trệ, không ai dám làm phim. Đỉnh cao của sự tê liệt là vào cuối năm 1960. Mọi sản xuất bị ngưng hẳn, thiếu vốn, phim Việt không cạnh tranh lại phim ngoại nhập. Báo chí thời kỳ này không còn mặn mà ủng hộ phim Việt. Vì cạnh tranh hoặc để bán báo, các tạp chí như Kịch Ảnh, Màn Ảnh Sân Khấu ( thời cũ ) , Điện Ảnh…đua nhau đăng bìa hình các ngôi sao Mỹ, Nhật, Hoa hoặc Anh, Pháp, Ý.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, phe quân đội nhảy dù bao vây Dinh Độc Lập, nổ súng vào chính quyền Ngô Đình Diệm. Cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi không thành công nhưng nó báo hiệu ngày tàn của chế độ. 

Thời gian này, chỉ có bộ máy chính quyền là vẫn sản xuất phim. Chính quyền Ngô Đình Diệm cho xây dựng Trung tâm Điện ảnh và ít nhiều đây cũng là nơi đào tạo ra những chuyên viên điện ảnh đầu tiên của miền Nam. Trung tâm này phần lớn sản xuất những cuốn phim thời sự, phim tài liệu, làm công cụ cho việc tuyên truyền của chính quyền nhà Ngô. Trong khi đó, các nhà sản xuất tư nhân thiếu vốn lớn để trang trải các món chi tiêu khổng lồ, nên người yêu phim Việt bị thiệt thòi lớn. Không chịu ngủ yên, một nhóm tâm huyết có tên là “Bọn trẻ” của Nguyễn Long và Hoàng Anh Tuấn, đã hô hào bạn bè cùng góp vốn làm phim. Và Nguyễn Long với Mưa lạnh hoàng hôn đã ra đời. Bộ phim dài 100 phút  này đã giới thiệu gương mặt diễn viên Mai Ly, Hoàng Anh Tuấn thì có Trời Không Muốn Sáng… Để cạnh tranh với làn sóng phim Ấn độ, phim Nhật và phim ca nhạc Hoa. Một nhà làm phim khác là Thái Thúc Nha đã điện ảnh hóa cải lương bằng những bộ phim như Oan Ơi Ông Địa (Thẩm Thúy Hằng đóng chính), Bẽ Bàng (Kim Cương đóng)…Nhưng cũng do làm vội và trình độ kỹ thuật yếu kém, nên 2 bộ phim này lại cũng bị các nhà phê bình và báo chí chê bai.

Năm 1962- 1963, nền điện ảnh miền Nam có dấu hiệu “hồi sinh” trở lại với nhiều hãng phim mới và những dự án làm phim. Các phim thời kỳ này bắt đầu áp dụng kỹ thuật phim màu đơn. Tiên phong trình chiếu trong dịp Xuân như Mưa Rừng của hãng Alpha (do Kim Cương, Kiều Chinh đóng chính), tiếp đến là Đôi Mắt Người Xưa (do Thanh Nga, Xuân Dung, Lê Quỳnh đóng chính). Kịch sĩ Năm Châu và đạo diễn Lê Mộng Hoàng làm phim Tơ Tình do hãng Mỹ Vân sản xuất (Thẩm Thúy Hằng, Mai Ly và nữ ca sĩ Thanh Thúy diễn chính). Sau thành công mạnh về doanh thu của Tơ Tình, hãng Mỹ Vân bắt tay vào sản xuất tiếp phim Bóng Người Đi (Đoạn Tuyệt). Phim Bóng Người Đi do Thẩm Thúy Hằng đóng cặp với Thành Được, Út Bạch Lan. 

Nhân đây, có vài dòng nhắc đến bộ phim Đôi Mắt Người Xưa. Phim này được làm rất tốn kém, kéo dài đến hơn 3 năm (1962-1964), với việc thay đổi vai diễn, diễn viên, thu âm tại nước ngoài. Đây là bộ phim đầu tiên mà Thanh Nga bước chân vào điện ảnh. Tuy nhiên phim mà cô trình làng đầu tiên với khán giả lại là Hai Chuyến Xe Hoa trình chiếu đầu năm 1963. Những bộ phim đáng chú ý trong giai đoạn này là: Loạn, Yêu (1964), Dang Dở (1965), Từ Sài Gòn Đến Điện Biên Phủ (hợp tác Đài Loan - 1966), Giã Từ Bóng Tối (1969), Trai Thời Loạn (1969), Loan Mắt Nhung (1969)…Ngoài Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Kiều Chinh, Thanh Nga…Thời kỳ này, điện ảnh miền Nam ghi nhận thêm những tên tuổi như :Kim Vui, Mộng Tuyền, Thảo Sương, Kim Xuân, Thanh Lan, Thiên Trang, Ngọc Minh...


Vào năm 1963, những hãng phim muốn có những nhạc cảnh hoặc các bài ca để cho vào phim của họ thì họ tìm đến Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Huỳnh Anh... Cho tới lúc này, Phạm Duy, Huỳnh Anh là những gương mặt nhạc sĩ đã liên tục soạn nhạc cho phim khá thành công. Hãng Mỹ Vân tại Saigon mời Phạm Duy soạn hai nhạc cảnh với kịch bản của Năm Châu, đó là nhạc cảnh Chức Nữ Về Trời, và Tấm Cám… Phần hát của hai nhạc cảnh này do các ca sĩ Hoài Trung, Thái Thanh trong ban Thăng Long thu giọng, để cho các tài tử La Thoại Tân, Thẩm Thúy Hằng diễn trong phim với kỹ thuật ''nhép miệng” 

Năm 1966, tại Đại hội điện ảnh Á Châu lần thứ 13, nữ diễn viên Xuân Dung đã được trao tặng giải thưởng nữ Diễn viên Xuất sắc nhất với vai diễn trong phim Đôi Mắt Người Xưa do hãng Liêm Phim sản xuất. Đây là một vinh dự lớn vì Xuân Dung là diễn viên điện ảnh miền Nam đầu tiên đoạt được giải thưởng lớn về điện ảnh trên trường quốc tế.

Đạo diễn làm phim nhiều và sung sức nhất của giai đoạn này là đạo diễn Lê Mộng Hoàng. Chỉ tính từ bộ phim đầu tay của ông là Bụi Đời, cho đến năm 1964, ông đã liên tục có: Vụ Án Tình, Con Gái Chị Hằng, Đò Chiều, Đôi Mắt Huyền, Quê Mẹ, Nhạc Lòng Năm Cũ, Tơ Tình…sau đó phải kể đến tên các đạo diễn như Tôn Thất Cảnh, Thân Trọng Kỳ, Nguyễn Văn Liêm, Lưu Bạch Đàn…


Điện ảnh Nam Việt Nam năm 1970- 30/4/1975

Tháng 11-1969, sau một thời gian dài bị phim ngoại lấn chiếm, bộ phim màn ảnh rộng màu đầu tiên Chân Trời Tím của đạo diễn Lê Hoàng Hoa do Trung tâm Điện ảnh Sài Gòn sản xuất, đã mở đầu cho thời kỳ "hưng thịnh" của điện ảnh Sài Gòn trước 1975. 

Từ bộ phim này, ca khúc chính trong phim- “Nửa Hồn Thương Đau”- được yêu thích và trở thành ca khúc ăn khách tại các sân khấu, phòng trà. Từ năm 1970, số lượng phim sản xuất được tăng nhanh, năm 1970 có 6 bộ, năm 1971 lên tới 24 bộ..., đỉnh cao là năm 1972 tới 29 bộ. Nhiều phim chiếu ra đông người xem, có thể cạnh tranh với phim ngoại như: Chiều Kỷ Niệm (đạo diễn Lê Mộng Hoàng, Việt Nam Film và Trung tâm điện ảnh Sài Gòn sản xuất năm 1970),  Loan Mắt Nhung (đạo diễn Lê Dân, 1970) và các phim khác như Như Hạt Mưa Sa, Như Giọt Sương Khuya, Giã Từ Bóng Tối, Nhà Tôi (1972), Xin Đừng Bỏ Em (1973)... Đây là những bộ phim có sự đầu tư về tâm lý nhân vật, khai thác thân phận của con người trong trường tình, trong đời sống xã hội đương thời... Bên cạnh đó, cũng có loạt phim “chiến tranh", mà tiêu biểu nhất là của đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc như Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương (1968), Người Tình Không Chân Dung (1971), Người Về Từ Đỉnh Núi, Con Búp Bê Nhồi Bông... Có 27 phim trong hai năm 1971 và 1972, 8 phim trong năm 1973... 

Cuối thập niên 1960, trong khi cải lương ngày một sa sút, thì lĩnh vực điện ảnh lại phát triển mạnh, hơn 30 hãng phim được cấp giấy phép hoạt động và đây là thời kỳ cực thịnh của giới làm phim, thời điểm làm giàu cho một số người biết kinh doanh nghệ thuật. Điện ảnh thương mại giai đoạn này có nhiều chuyển biến tốt. Các hãng phim đã biết nhìn xa trông rộng, các nhà làm phim tự biết nâng cấp kiến thức điện ảnh cho mình qua việc tầm sư học đạo ở những chuyên viên nước ngoài, những tư liệu qua sách báo và các tác phẩm nghệ thuật kinh điển. Các hãng cũng bắt đầu săn lùng, tìm kiếm đối tác với các nước trong khu vực …Phong trào sản xuất phim của điện ảnh miền Nam từ từ vượt qua những giai đoạn khủng hoảng (1959-1966) để phát triển mạnh mẽ trở lại. 

Năm 1969, chính quyền Sài Gòn lại càng thả nổi việc nhập phim,  Bộ Thông tin VNCH tiếp tay với tư sản Hoa kiều dành nhiều ưu đãi cho phim Trung Hoa, nhưng điện ảnh Việt và những dự án làm phim vẫn tiếp tục phát triển mạnh, thậm chí còn lấn lướt nghệ thuật ca diễn, vốn là món ăn quen thuộc của công chúng. Một số các nghệ sĩ cải lương, ca kịch đã phải chuyển hướng để kiếm kế sinh nhai, những cái tên ăn khách như Hùng Cường, Út Bạch Lan, Thành Được, Bạch Tuyết, Thanh Tú …đều gia nhập làng điện ảnh. 

Đây là giai đoạn không chỉ nghệ sỹ cải lương mà các ca sĩ, diễn viên kịch nói, cũng “lấn sân” sang phim trường nhiều nhất, nổi bật là những vai diễn của Bạch Tuyết (Như Hạt Mưa Sa, Như Giọt Sương Khuya, Lan Và Điệp, Con Ma Nhà Họ Hứa…), Băng Châu (Trần Thị Diễm Châu), Bạch Liên (Men Tình Mùa Hạ, Hoa Mới Nở), Như Loan (Đời Chưa Trang Điểm), Phương Hồng Ngọc (Nắng Chiều, Nàng), Phương Hoài Tâm, Thanh Lan (Tiếng Hát Học Trò, Trường Tôi) Trang Thanh Lan (Xa Lộ Không Đèn), Ngọc Đan Thanh (Quái Nữ Việt Quyền Đạo), Mai Lệ Huyền (Gác Chuông Nhà Thờ, Ly Rượu Mừng), Tuyết Lan (Trường Tôi)…

Từ năm 1970 trở đi, Điện ảnh miền Nam Việt Nam liên tục cử nhiều phái đoàn đi dự các liên hoan phim Quốc tế tại Tây Đức, Ấn Độ, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Campuchia…Phim giải trí thực sự “trăm hoa đua nở” với thành công về mặt tài chính , dẫn đầu là các phim Chiều Kỷ Niệm, Chân Trời Tím, Loan Mắt Nhung, Như Hạt Mưa Sa, Như Giọt Sương Khuya…Chính quyền VNCH tại Sài Gòn đã bắt đầu quan tâm đến nền điện ảnh non trẻ trong nước. Giải thưởng Điện ảnh chuyên nghiệp đầu tiên ra đời năm 1970, và báo chí thông tin về các hãng đua nhau xin xây dựng phim trường, như Mỹ Vân phim, Cosunam phim, Việt Nam Phim, Giao Chỉ phim…Thời điểm  này, các nhà làm phim tại Sài Gòn “ đo” năng lực của nhau bằng việc sản xuất phim màu. Hai bộ phim màu được đầu tư mạnh nhất là Chân Trời Tím của Liên Ảnh công ty và Người Tình Không Chân Dung của Giao Chỉ Phim. Phần in tráng phim đều được thực hiện tại nước ngoài, và Nhật Bản là nơi được các nhà làm phim “ chọn mặt gửi Vàng”. Năm 1972 là thời điểm bùng nổ của phim mầu. Chính phủ miền Nam phê duyệt văn thư miễn thuế nhập cảng phim màu cho giới sản xuất, tạo điều kiện cho việc sản xuất điện ảnh trong nước.
Liên tiếp các năm 1971, 1972, 1973, 1974 ở các kỳ liên hoan phim trong khu vực, Việt Nam đều gặt hái được những giải thưởng, các gương mặt khả ái của điện ảnh miền Nam Việt Nam như Kiều Chinh, Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương…đều đã được tôn vinh ở phim  trường quốc tế.

Đã trải qua nhiều thăng, trầm để đúc kết được kinh nghiệm,các nhà làm phim lúc này đã nắm được “khẩu vị” của khán giả, nên họ thay đổi rất linh động. Phim Con Ma Nhà Họ Hứa là bộ phim thuộc đề tài kinh dị đầu tiên của điện ảnh Việt Nam đã thắng lớn về doanh thu. Các bộ phim như Sau Giờ Giới Nghiêm, Xa Lộ Không Đèn, Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang, Mãnh Lực Đồng Tiền…thành công là nhờ biết khai thác thế giới của các tay anh, chị, giới giang hồ, giới vũ nữ…, hoặc những phim theo thể loại hài, vui nhộn như Năm Vua Hề Về Làng, Tứ Quý Sài Gòn, Sợ Vợ Mới Anh Hùng luôn được đông đảo khán giả bình dân ủng hộ và cháy vé….Ngoài ra, các diễn viên và các nhà làm phim đã biết tìm kiếm đối tác, hợp tác với các nhà sản xuất trong khu vực như: Thẩm Thúy Hằng đóng phim hợp tác (phim Sóng Tình với Đài Loan, Vàng với Thái Lan…) .Thời kỳ phát triển và sung sức này của điện ảnh miền Nam Việt Nam rất gần giống với giai đoạn phát triển của các nhà làm phim tư nhân Việt Nam thời gần đây. Có những bộ phim xuất hiện ở hai thời kỳ cách nhau đến hơn 30 năm, ta vẫn thấy có những nét tương đồng, đặc biệt là những bộ phim thị trường ăn khách…Trong số này, nhiều phim đề cập tới hiện thực của cuộc sống ăn chơi, sa đọa, không quan tâm gì đến thời cuộc của lớp trẻ thành thị như: Xa Lộ Không Đèn, Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang, Cô Híp-pi Lạc Loài, Anh Yêu em, Hè 72... Ngoài những dòng phim kể trên, điện ảnh quyền cước võ thuật Hồng Kông phát triển rất mạnh và nên cũng có nhiều nhà sản xuất cho thực hiện những phim theo thể loại này như Báu Kiếm Rửa Hận Thù của hãng phim Trung Hoa hợp tác sản xuất với Á Đông phim.. Phim này có sự tham gia rất hùng hậu của các tài danh Việt như: Danh hề Văn Chung, Đức Phú, Ngọc Đức, Út Bạch Lan, Ngọc Đan Thanh, Phương Hồng Ngọc…Các phim khác cũng được thực hiện theo đề tài này như: Tiêu Sơn Tráng Sĩ, Long Hổ Sát Đấu, Quái Nữ Việt Quyền Đạo…

Thời điểm này Lê Hoàng Hoa được coi là “vua” của phim thương mại. Đây là giai đoạn sung sức nhất của Lê Hoàng Hoa với nhiều thể nghiệm về phim xã hội đen, phim kinh dị cho đến phim hài như Chân Trời Tím, Điệu Ru Nước Mắt, Con Ma Nhà Họ Hứa. Các đạo diễn “ đình đám” khác có Hoàng Anh Tuấn, Bùi Sơn Duân, Lê Mộng Hoàng, Lê Dân, Lưu Bạch Đàn, Nguyễn Văn Tường (thường hợp tác với Kim Cương)…

Từ năm 1973 trở đi thì điện ảnh bắt đầu có dấu hiệu xuống dốc, nhà sản xuất có người sạt nghiệp luôn bởi bao nhiêu vốn liếng bỏ vào chẳng thu lại được mà còn thêm nợ cũng do làm phim mà ra.
Trước tình trạng ấy, vào khoảng Tháng Sáu, năm 1974, trong cuộc hội thảo do trường Ðại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật thuộc Viện Ðại Học Minh Ðức tổ chức với đề tài “Làm sao phát triển điện ảnh Việt Nam.”
Thuyết trình viên là ông Võ Văn Phát, nguyên là dân biểu, đồng thời là chủ tịch Nghiệp Ðoàn Khai Thác Ðiện Ảnh Việt Nam đã cho biết từ nhiều tháng trước đó thị trường điện ảnh đã gặp nhiều khó khăn, khiến cho hầu hết các nhà khai thác đều lâm vào cảnh lỗ lã. Ông quả quyết rằng không một nhà khai thác nào có lời, chỉ lỗ nhiều hoặc lỗ ít mà thôi! 

Nếu như tình trạng kéo dài thêm một thời gian nữa thì chắc chắn điện ảnh Việt Nam sẽ lâm vào tình trạng của cải lương hồi năm Mậu Thân, nghĩa là khán giả đã xa dần điện ảnh, để rồi chẳng bao giờ tái tạo được sinh khí của những thời kỳ mà khán giả ùn ùn kéo nhau đi coi phim. 
Câu nói của ông chủ tịch khai thác điện ảnh quả không sai. Khoảng giữa năm 1974 các tài tử điện ảnh gốc cải lương trở lại với sân khấu đã trả lời với bạn bè, “Không trở về sao được, ở bên đó ‘húp cháo’ hoài chịu sao thấu.”

Những ngày đầu năm 1975, phong trào làm phim vẫn cứ sôi động. Đỗ Tiến Đức đạo diễn bộ phim kinh dị màu Giỡn Mặt Tử Thần với sự tham gia của Thẩm Thúy Hằng, Ngọc Đức, Phương Uyên…Đạo diễn Lưu Bạch Đàn cùng Thẩm Thúy Hằng lên kế hoạch hợp tác với Nhật Bản quay bộ phim Tình Khúc Thứ 10, Hòn Vọng Phu,….

Ngày Điện ảnh Việt Nam do ông Thái Thúc Nha làm chủ tịch, diễn ra vào ngày 14/9/1974, đã phát động phong trào phát triển và ủng hộ phim Việt với khẩu hiệu “Người Việt xem phim Việt”…Hãng phim Mỹ Vân xây dựng hoàn chỉnh phim trường lớn cho hãng ở  xa lộ Biên Hòa….

Dịp tết năm 1975, màn ảnh Sài Gòn vẫn vô cùng nhộn nhịp với hàng loạt các bộ phim đua nhau ra rạp, đầy màu sắc thương mại và chạy theo thị hiếu của khán giả như: Hải Vụ 709 (phim màu, do Việt Ảnh phim sản xuất, thể loại xã hội đen, buôn lậu), Từ Quê Ra Tỉnh (Lido phim sản xuất), Chàng Ngốc Gặp Hên (Vilifilms sản xuất), Sợ Vợ Mới Anh Hùng, Quái Nữ Việt Quyền Đạo, Năm Vua Hề Về Làng, Quái Nữ Sợ Ma, Tam Quái Túc Cầu…

Vào tháng 2/1975, các tài tử nổi tiếng Hồng Kong như: Lý Thanh, Dương Tiểu Bình… và một số nữ nghệ sĩ Trung Hoa ở Hong Kong và Ðài Bắc đã đến Sài Gòn để thăm và tham gia một chương trình hát từ thiện…

(trích theo sách Điện Ảnh Miền Nam Trôi Theo Dòng Lịch Sử - tác giả Lê Quang Thanh Tâm)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Sốc với "trò" của Mai Quốc Doanh

Duy Tân - Người Mẫu và Diễn Viên